Bạc hà, Ngưu bàng tử, Thuyền thoái đều tính hàn lương, đều có thể sơ tán phong nhiệt, thấu chẩn, lợi yết. Đều có thể dùng với ngoại cảm phong nhiệt hoặc ôn bệnh sơ khởi, phát nhiệt, hơi sợ gió lạnh, đau đầu, miệng khát, lưỡi thon đỏ, rêu vàng mỏng, mạch phù sác; ma chẩn sơ khởi, thấu phát bất sướng; phong chẩn lở ngứa; phong nhiệt thượng công, yết hầu sưng đau…
Điểm khác nhau ở chỗ: Bạc hà tân lương phương hương, thanh nhẹ lương tán, lực phát hãn tương đối mạnh, ngoại cảm phong nhiệt, phát sốt, vô hãn bạc hà được lựa chọn đầu tay. Bạc hà lại có thể thanh lợi đầu mắt, sơ can hành khí, có thể dùng trị phong nhiệt thượng công, đau đầu, mắt đỏ sung đau, chảy nước mắt, miệng lưỡi lở loét; can uất khí trệ, hung bĩ, hiếp lặc (sườn) trướng đau, kinh nguyết thất điều, mạch huyền.
Ngưu bàng tử tân tán khổ tiết, tính hàn hoạt lợi, có thể tuyên phế khứ đàm, ngoại cảm phong nhiệt, phát sốt, khái thấu khạc đàm bất sướng, ngưu bàng tử ưu tiên dùng. Phế nhiệt, khạc đờm bất sướng có thể dùng. Ngưu bàng tử ngoại tán phong nhiệt, nội giải nhiệt độc, lại có thể thanh nhiệt giải độc tán thũng. Cũng có thể dùng với các chứng nhiệt độc: sưng đau snag độc, viêm quầng (Erysipelas), quai bị, hầu tý…Do đặc tính hoạt lợi, hoạt trường thông tiện, thích hợp dùng với các chứng đại tiện bí tiết.
Thuyền thoái cam hàn chất nhẹ, lực phát hãn không như Bạc hà, lực thanh nhiệt không như Ngưu bàng tử. Có thể sơ tán phế kinh phong nhiệt mà lợi yết trị á (câm, khàn), thấu chẩn chỉ dương, lại có thể sơ tán can kinh phong nhiệt mà minh mục thoái ế, lương can tức phong giải kinh. Cũng thường dùng với Phong nhiệt thượng công hoặc can hỏa thượng viêm gây chứng thương phong: mắt đỏ sưng đau, viêm kết mạc; kinh phong run giật…Ngoài ra, vị thuốc còn thường dùng trị thiếu nhi dạ đề bất an.