Sinh địa hoàng và Huyền sâm đều cam, khổ, tính hàn, đều có thể thanh nhiệt lương huyết, dưỡng âm sinh tân. Đều có thể trị ôn bệnh nhiệt nhập dinh huyết, phát nhiệt phát ban, tâm phiền miệng khát, phiền táo bất an, miệng khô lưỡi giáng, thậm chí thần hôn chiêm ngôn, tới ôn độc phát ban; nhiệt bệnh thương tân, lưỡi giáng, phiền khát uống nhiều, tới âm hư nội nhiệt mà tiêu khát, cốt chưng lao triều nhiệt, đạo hãn di tinh... Do đó, bất kể là nhiệt thực chứng tại dinh huyết hay hư nhiệt chứng do âm hư phát nhiệt, cả 2 đều có thể phối dùng.
Điểm khác nhau ở chỗ: Sinh địa hoàng thanh nhiệt lương huyết mạnh, tư âm sinh tân mạnh hơn, là thuốc lương huyết tư âm trọng yếu, nếu nhiệt bệnh thương tân thấy lưỡi giáng phiền khát uống nhiều, âm hư tiêu khát, âm hư phát nhiệt, Sinh địa hoàng hay dùng. Lại thường dùng với ôn bệnh hậu kỳ, dư nhiệt chưa giải, âm tân đã thương, tà còn lưu âm phận, chứng thấy đêm sốt ngày mát, lưỡi đỏ mạch sác; huyết nhiệt vọng hành mà thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, niệu huyết, băng lậu (Huyết nhiệt xuất huyết).
Huyền sâm lại hàm, thanh nhiệt lương huyết, dương âm sinh tân yếu hơn, thường dùng tả hỏa giải độc tán kết. Lại thường dùng ngoại cảm ôn độc, nhiệt độc ủng thịnh mà yết hầu sưng đau, bạch hầu, tới âm hư hỏa vượng mà yết hầu sưng đau; can nhiệt mắt đỏ sưng đau; đàm hỏa uất kết mà gây chứng loa lịch đàm hạch; ung thũng sang độc, thoát thư.